NGÕ HÀ NỘI

 

Quỳnh Hương

 

   Chưa từng ai làm con số thống kê rằng:có bao nhiêu phần trăm cư dân Hà Nội trưởng thành cùng những “Ký ức hình ống”? Cuộc sống trong những con ngõ chật chội, sâu hun hút, quanh năm không có nắng chiếu – mang nhiều âm hưởng lam lũ hơn sự thi vị. Người Hà Nội đi xa, hiển nhiên nhớ phố. Và rưng rức trong những cơn cớ không yên lại là ký ức về ngõ. Nơi đó có 1 đời sống thanh bình và bất ổn đan dệt nhau, có ồn ào mưu sinh xen lẫn những trầm mặc ngưng đọng, có sự thơ ngây lỗi nhịp chung sống với láu cá thời thượng…

  Ngõ Hà Nội có mật độ chằng chịt, vài nhà  lại đến 1 ngõ. Đặc điểm chung là ngõ hẹp. Khi các gia đình thi nhau đua ban công, làm thêm “chuồng cọp” để tận dụng diện tích phơi phóng; khi ngành điện lực và bưu chính viễn thông hợp sức chăng những búi dây như mạng nhện dọc ngang – thì  cái khe hở để ngửa cổ nhìn trời trong lòng ngõ chỉ còn đo bằng gang tay. Kỹ năng sống đầu tiên cần phải học khi làm cư dân ngõ- ấy là khả năng lạng lách. Để tránh không va quệt phải những bếp tổ ong, quầy la-ghim, mẹt rau rong, gánh hàng quà người ta bày hết ra lối đi chung. Chưa kể đến xe nôi trẻ con, người già lững thững đi tập dưỡng sinh – thường không tuân theo bất cứ nguyên tắc nào khi tham gia giao thông trong ngõ. Ngõ giữa lòng phố cổ là lối đi âm âm  hình ống, quanh năm không có nắng chiếu, chỉ vừa 1 người đi. Nhà muốn mua cái Ti vi hay tủ lạnh, đau đầu nát nước nghĩ cách chuyển vào. Nhiều mối tình tan vỡ khi cô gái đến thăm nhà người yêu trong ngõ, vì không muốn hình dung đám rước dâu của mình sau này sẽ là cuộc đi hàng một chật vật mò đường trong lòng ngõ tối. Người quen ở phố rộng, thường ái ngại cho những cuộc sống quanh năm ướp mùi khói than, mùi xào nấu, mùi quần áo âm ẩm của cư dân ngõ. Nhưng sự thân thương, yên bình, những đầm ấm quyến luyến trong không gian sống nhỏ hẹp, cổ xưa và khuất khúc ấy lại đích thị là cảm xúc mà chỉ người của ngõ mới cảm nhận được.

   Cũng như vỉa hè, mỗi centimet mặt ngõ đều có ý nghĩa nuôi sống những cư dân của mình. Sáng sớm mùi thơm lừng nồi nước dùng của bác hàng phở đã len lỏi đánh thức từng nhà; Hàng quà san sát đầu ngõ những xôi chè, trứng vịt lộn, cháo sườn. Các bà nội tướng không cần bước chân ra chợ, vì những chị hàng rau, hàng cá, hàng thịt với chiếc mẹt nhỏ cắp ngang hông đến rao tận cửa. Mùa nào thức nấy, chẳng có thời trân nào bán trên phố mà người ta không chăm chỉ mang vào tận ngõ. Kim chỉ, mắc áo, bả chuột, móc khoá…lắt lẻo theo các gánh hàng rong, được bán với giá mềm hơn tại chợ. Từ sáng đến đêm khuya, những tiếng rao hàng kéo  dài lê thê trong các ngõ nhỏ sâu hút, có gì nhẫn nại, có gì đượm buồn.

   Cho dù hiện nay cafe,nhà hàng máy lạnh nội thất đẹp, wifi chạy vù vù đang là thú hưởng thụ thời thượng của thanh niên Hà Nội- thì cái văn hoá ngồi xổm vỉa hè để ăn uống, thứ văn hoá  tiếp nối tập tục sinh hoạt chợ quê của một Hà Nội cũ vẫn chẳng bao giờ bị áp đảo. Bàn bạc hợp đồng, cần 1 không gian ngồi sang trọng, hay trời oi nực ngại đổ mồ hôi – người ta có thể vào cafe máy lạnh làm 1 ly trà túi lọc nhạt hoét; hoặc gọi 1 bát phở bò với nước dùng thập cẩm có thể chan vô tội vạ cho cả mì tôm, bún, miến. Nhưng để thưởng thức, để được khoái khẩu- chắc chắn phải ra vỉa hè, vào các ngõ nhỏ. Bởi chốn ồn ào dân giã ấy mới là nơi lưu giữ trọn vẹn và tôn vinh ẩm thực Hà Thành lên tầm nghệ thuật tinh hoa.     

   Ngõ Phất Lộc nổi tiếng không phải nhờ đã từng vào tranh Bùi Xuân Phái, mà vì một hàng bún đậu mắm tôm. Gần 20 năm trước, chị Trần Thị Hương về làm dâu Phất Lộc, ngõ có thêm gánh bún đậu mắm tôm tần tảo.  Mắm tôm được thửa riêng từ Thanh Hoá, loại vừa ngấu tới, màu mắm ửng hồng, thơm dậy. Gia giảm đường, bột ngọt, ớt tươi theo một bí quyết riêng, rưới thêm thìa mỡ rán đậu sóng sánh- bát mắm tôm là đòn hạ gục khách của chị Hương.  Miếng đậu rán ở đây mới thật đặc biệt: đậu phụ làng Mơ, ăn vào miệng cứ muốn giữ mãi cái dư âm mềm, dẻo, thơm ngậy; ăn kèm với bún vắt Phú Đô trắng mịn cắt miếng; Thêm đĩa rau húng Láng, kinh giới, tía tô tươi roi rói, lắc đác mấy miếng dưa chuột nếp da xanh nõn, giòn ngọt tận chân răng….Ai đã ăn một lần không thể không quay lại. Chả thế mà chỉ với món hàng quà rẻ tiền này, gia đình chị Hương đã xây được căn nhà lầu bề thế nhất nhì ngõ Phất Lộc.

  Cách hàng bún đậu mắm tôm ngõ Phất Lộc không xa là cà phê Năng- nằm ngay đầu ngõ. Quán rất nhỏ, dăm bộ bàn ghế bé tí bám dọc tường, quầy pha cafê và cầu thang đã chiếm gần hết không gian trong quán. Nên phần lớn khách thường mang ghế đẩu tràn ra  vỉa hè Hàng Bạc. Chỉ có đen và nâu, nóng và đá- quán đông nghịt suốt ngày đêm. Có người nghiện ngồi cà phê Năng vì chỉ ở đây (và dăm quán cũ là Nhân, Lâm, Giảng…) mới còn cà phê chính hiệu Hà Nội, không lai tạp mấy thứ cà phê nhuốm màu công nghiệp của Trung Nguyên hay Highland. Lại có người nghiện không khí vỉa hè phố cổ, đầy chuyển động nhưng vẫn nhuốm màu thâm trầm cổ kính.

Càphê ngõ độc đáo nhất là “Phố Cổ”- ẩn mình như một ốc đảo thanh bình giữa phố Hàng Gai tấp nập bán mua tơ lụa. Quán chỉ dành cho khách quen, những người ưa tĩnh và hoài cổ. Trước kia còn có chiếc biển hiệu bé tí, với dòng chữ “Phố Cổ” viết tháu, từ đường Hàng Gai phải tinh mắt lắm mới nhìn thấy. Chẳng hiểu sao gần đây cái biển nhỏ ấy ông chủ cũng cất nốt, như ngại rằng nhiều người đến quá (?).Trong không gian tịnh mịch với nhà cổ, hoành phi câu đối, sân vườn, khóm trúc,vài con gà tre quanh quẩn mổ rêu góc sân, 1 con rùa đá bắt muỗi sau hòn non bộ- người khách có cảm giác đồng hồ thời gian quay ngược lại Hà Nội của thập kỷ 60-70. Chủ quán bài trí “Phố Cổ” không nhuốm màu quán xá, mà để khách được thư thái như đang thưởng trà trong chính ngôi nhà êm đềm của mình. Trà Tàu, cà phê Trứng ở đây rất ngon, khách muốn ngồi qua trưa có thể đặt quán nấu cơm dư, sẽ được ăn canh cua, cà muối, cá kho tương- những món thuần quê mà chủ nhân “Phố Cổ” kỹ tính nấu riêng cho nhà mình.

  Tạm Thương là con ngõ nhỏ thông giữa 2 phố cổ Yên Thái và Hàng Bông. Giữa ngõ có đình thờ Nguyên Phi Ỷ Lan, theo sử cũ thì ngõ này vốn là một kho trữ lương. Tạm Thương được gọi là ngõ rượu- nơi thương nhớ lâu bền chứ không hề tạm trong lòng dân nhậu. Suốt dọc con ngõ dài là hàng chục quán bình dân chuyên trị rượu dân tộc. Thôi thì đủ cả Tắc kè, bìm bịp, sâm cầm, cá ngựa, sâu chít, ong đất, sâm củ…loại nào liên quan đến “động thực vật” mà các cụ ta xưa tìm ra, ở đây có cả. Giờ cao điểm ở ngõ Tạm Thương từ 5h chiều đến 12h đêm. Con ngõ vốn chẳng rộng gì bị trưng dụng làm những bàn nhậu ngoài trời cho khách, trước cửa mỗi nhà đều có 1 lò than đỏ rực, trên bắc chảo mỡ sôi để rán nem, chiên chả nhái. Đồ mồi ở Tạm Thương có từ những món phổ biến như nem chua rán, củ đậu, xoài xanh, khô mực – cho đến những đặc sản quái chiêu như dế mèn, châu chấu, tiết  canh chim sẻ…Trong cùng 1 quán nhậu có thể tìm thấy đủ hạng người: các cô cậu sinh viên trẻ, mấy bác nhà văn, hoạ sĩ già, xích lô ba giác, cánh buôn bán đánh quả, dăm cô gái ăn sương làm vài ly cho đỡ mỏi trước khi vào “ca”…Vào tới ngõ mọi sự phân biệt hèn sang đều không còn giá trị, mọi người đều bình đẳng hưởng thụ không gian chếnh choáng sau những chung rượu say say êm lừ.

  Ngõ Cấm Chỉ giờ đã được đưa vào khu phố ẩm thực Việt Nam cùng với phố Tống Duy Tân, đặc sản 3 miền Bắc- Trung- Nam đều có ở Cấm Chỉ. Nhưng phàm là “trung tâm ẩm thực” người bán hay cốt lấy nhiều hơn là lấy tinh – đồ ăn xô bồ, phục vụ nhu cầu ăn tiện, ăn nhanh. Vì vậy những người sành sỏi, ăn uống gảy gót thường ngại không lai vãng đến đây. Cấm Chỉ không có giờ giới nghiêm, khuya đến mấy ngõ vẫn nườm nượp khách ra vào, tưng bừng đèn đuốc, mùi xào nấu, tiếng băm chặt. Vì vậy Cấm Chỉ đem lại niềm vui của đám đông, của không khí hội hè.

 Những “người tình chung thuỷ” của phở bò Hà Nội có thái độ rất miệt thị đối với phờ bò Nam Định- cơn lốc mới của du nhập văn hoá ẩm thực, theo lý của họ thì phở Nam Định thô và dai, ăn xong có cảm giác như vừa đạp 1 cuốc xích lô. Phở bò Hà Nội nước dùng ninh bằng xương ống bò, không cần tra mì chính vẫn ngọt thỉu, dậy đủ mùi của nước mắm chắt, gừng hành nướng, hoa hồi, thảo quả, quế cay. Ngõ Trung Yên trổ ra từ đoạn giữa phố bán đồ len Đinh Liệt, ngay đầu ngõ có hàng phở Sướng. Quán bé tí, bán suốt ngày đêm, phở ngon, nước dùng rất thanh, thịt đậm, miếng tái thì mềm, miếng nạm thì dòn, miếng gàu thì béo- ăn xong sướng hết cả người. Quán phở Sướng cũ kỹ như đặc điểm chung của mọi hàng quán “danh bất hư truyền” của khu phố cổ. Xế bên cạnh, ngay đầu ngõ là hàng nem tai bà Ngà. Cái vỉa hè rộng chừng 2 manh chiếu vào giờ cao điểm có thể dựng được hơn 20 người ăn. Nem tai bà Ngà có màu hồng trong, thính trộn từ gạo nếp, đỗ xanh, đỗ tương rang vàng hươm toả mùi thơm ngậy. Nem cuốn cùng lá sung, đinh lăng, kinh giới, bánh tráng- ăn ghém với ít quả sung giầm tỏi ớt, là món hàng quà mê mẩn của biết bao cô cậu học trò. Tô Tịch mùa hè là ngõ sinh tố, trái cây dầm; mùa đông là ngõ hạt dẻ rang. Vào những chiều đông giá lạnh, ngồi ở con ngõ nhỏ cắt phố Ấu Triệu ngay bên hông Nhà Thờ Lớn, ủ tay trên lò than hoa, nhâm nhi mấy con mực nướng, lắng nghe tiếng chuông nhà thờ chầm chậm thả vào thinh không- tưởng rằng có thể quên sạch mọi ưu phiền trên đời.

  Trong mỗi ngõ Hà Nội đều có vài hàng trà chén. Mùa đông chủ lực quân là trà nóng, mùa hè trà đá. Không “liêu xiêu một câu thơ”, cũng chẳng lều cột võng mái gì, chỉ bộ giỏ tích, khay chén, hộp kẹp lạc đựng lẫn kẹo cao su, dăm bao thuốc lá, sang ra thì có thêm quả ổi xanh, xoài chua, đĩa muối ớt…thế là đã thành cơ ngơi một hàng trà chén. Người bán nước là người kể chuyện của đường phố, trạm thu- phát những bản tin vỉa hè. Ngồi đầu ngõ uống xong 2 chén nước, có thể biết đủ các tin chạy âm đen trên trang nhất các báo vừa ra buổi sáng; cũng như chuyện đêm qua trong ngõ nhà ai vợ chồng xích mích, nhà ai con bị nghiện, cho đến chuyện biệt thự công biến thành nhà tư đang làm nóng toàn thành phố.

   Những ngày nhàn rỗi tôi tự thưởng cho mình một buổi chiều không bon chen, không hạn định công việc, không giận dữ người tình. Bằng cách tự thu xếp cho mình 1 diện tích khiêm tốn trên vỉa hè, hay trong lòng quán chật chội ám màu cũ kỹ nơi ngõ nhỏ. Ngồi mà im lặng, thả lỏng hoàn toàn, thấy mình vơ vẩn như một cái lá cây được thổi vèo xuống ngõ. Ngồi sẽ chứng kiến một đời sống chuyển động không ngừng, với đủ trạng thái hỉ-nộ-ái-ố, những nỗi ngậm ngùi cũng như vẻ hồn hậu toả ra từ đời sống rất đỗi sinh động của ngõ. Từ ngõ nhỏ, tôi ngồi để nhìn ra những ẩn tình giản dị và mật thiết của thân phận người và phố….

 

 

 

Ký ức Hà Nội và một số phận buồn

 

    Nhà nhiếp ảnh Nguyễn Duy Kiên (1911-1979) sinh ra và sống giữa lòng phố cổ Hà Nội. Ông chơi ảnh và chụp ảnh chỉ như để ghi lại ký ức của mình về một Hà Nội mà cả đời ông và gia đình gắn bó. Hà Nội hiện diện trong ảnh của Nguyễn Duy Kiên ăm ắp tình với những khuôn diện thanh lịch, những di tích già nua nhuộm màu thời gian nhưng đầy sức sống, những vùng quê ngoại ô lam lũ mà vẫn toát lên cốt cách của một xứ sở văn hiến. Chủ nhân của những bức hình tuyệt đẹp về Hà Nội lại có một số phận nhiều buồn thương…

 

Người vợ hiền

   Dấu vết còn lại nguyên vẹn của một tư gia quý tộc Hà Nội gốc chỉ còn lại căn buồng trên gác 2, nơi bà quả phụ Nguyễn Duy Kiên đang sống. Trong căn phòng u tịch màu thời gian, bà lão phúc hậu đã 88 tuổi hàng ngày vẫn dạy bọn trẻ dưới tấm bảng gỗ sơn then khắc những lời giáo huấn của tổ tiên bằng chữ Hán.

Tên thời con gái của bà Kiên là Phạm Thị Miễn. Cô Miễn xưa là cô giáo trường tư thục, nhà nghèo, bố mất sớm để lại người vợ góa nuôi 8 đứa con côi.  Nguyễn Duy Kiên là ông chủ tiệm thuốc Bắc, người vợ đầu qua đời sau một lần sinh nở, ông gà trống nuôi 4 con thơ. Ông Kiên đem lòng cảm mến cô giáo nhỏ nhắn hiền lành, rất mực yêu trẻ. Mẹ cô Miễn muốn gả con vào nơi yên ấm, người con gái một lòng vì chữ hiếu mà nhận lời gá nghĩa, về chăm sóc đàn con dại cho ông Kiên. Cô Miễn trở thành bà Kiên, học nghề bán thuốc, chăm chút chồng con hết lòng tận tụy. Bà và ông có thêm một người con gái, so với 4 con riêng của chồng- yêu thương bà Kiên dành cho lũ trẻ luôn công bằng.

Đam mê nhiếp ảnh từ thời trai trẻ, Nguyễn Duy Kiên là bạn ảnh cùng thời với Lê Đình Chữ, Võ An Ninh, Phạm Văn Mùi, Đỗ Huân…Ông chơi ảnh rất công phu: sắm buồng tối tại nhà, tự tay in phóng ảnh, mày mò tìm ra các kỹ xảo. Rời hiệu thuốc là ông lại lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm của Hà Nội để ghi lại từng vẻ đẹp phong cảnh và con người, những biến chuyển thời cuộc in dấu lên từng con phố mà ông thân quen từ thơ bé. Nguyễn Duy Kiên chụp ảnh cho Hà Nội của chính ông. Những khuôn hình nghiêm cẩn, kỹ càng  và chan chứa tình. Sau này, khi di sản tinh thần của ông đến tay những nhà chuyên môn, họ đã choáng váng vì những bức ảnh quá đẹp. Quan trọng hơn- di sản ấy còn là những sử liệu vô giá bằng hình ảnh về Hà Nội trong suốt 20 năm nhiều biến động 1940-1960.

Những ngày buồn thương

 

Với 5 đứa con, người vợ đảm đang hết mực tin yêu chồng, Nguyễn Duy Kiên yên ổn với cuộc sống của mình – chỉ cần ông còn được chụp ảnh. Nhưng tai nạn đã ập đến với họ bất ngờ, để rồi tổ ấm của họ phải sẻ đàn tan nghé. Đó là một ngày của năm 1967, Nguyễn Duy Kiên có lệnh khám nhà. Người ta tìm thấy trong kho ảnh của ông có 1 tấm hình khỏa thân. Sau này bạn bè ông nói đó là tấm ảnh một người đến phóng nhờ buồng tối rồi để quên lại, cũng có người nói ông chụp để gửi dự thi quốc tế, vì BTC yêu cầu hồ sơ bộ ảnh phải đủ tĩnh vật- phong cảnh- chân dung và ảnh khỏa thân. Không ai biết chính xác “lý lịch”  tấm ảnh định mệnh ấy, còn Nguyễn Duy Kiên thì chỉ im lặng.  Bị kết tội chụp ảnh suy đồi cái tội đủ để làm tan nát danh dự một gia tộc. Quá khứ đã qua, nhưng ám ảnh kinh hoàng vấn đọng trong lời kể của bà Kiên: “Chồng tôi đau đớn lắm, nhưng ông biết thời thế, biết phận mình phải như thế. Oan khuất biết kêu ai? Nên bố cháu chỉ im lặng. Ông bị xử điển hình, kết án 11 năm tù. Chồng tôi cải tạo tạn Lào Cai- xứ rừng thiêng nước độc. Cứ nửa năm tôi và cháu lớn lại được lên thăm bố cháu một lần, đường rừng toàn đá tai mèo nhọn sắc, hai mẹ con đi bộ hàng chục cây số máu rỏ dọc đường. Mỗi lần thăm  bố cháu lại tiều tụy hơn”. Ông bị bệnh thận, bà Miễn viết đơn xin giảm án cho chồng, Nguyễn Duy Kiên đựơc trở về với gia đình sau 8 năm thụ án. Ông về, nhớ nghề ảnh thì mang máy ra chụp loanh quanh trong nhà, ông không dám ra ngoài, bạn bè cũng e ngại không còn ai lui tới. Đoàn tụ của họ lặng lẽ và ngậm ngùi, chẳng nỡ làm nhau đau hơn – ông không kể những ngày trên trại, bà không kể những năm tháng một mình tủi cực nuôi con. Năm 1979, ở với vợ con đựoc 4 năm thì ông mất vì sức khỏe suy kiệt.Bà Kiên vẫn rơm rớm nước mắt khi nhớ lại: “Khi bố cháu mất, danh dự vẫn chưa được rửa, ông ấy xuôi tay mà không nhắm được mắt…”

Toàn bộ kho ảnh của Nguyễn Duy Kiên hiện chỉ còn khoảng 200 bức ảnh bà Kiên giữ lại được, suốt mấy chục năm thỉnh thoảng bà lại mang tập ảnh ra phơi cho khỏi hỏng. May mắn thay, qua ngần ấy năm trời những tấm ảnh vẫn lành lặn. Bà cất giữ  ảnh vì thương nhớ chồng, chứ không dám nghĩ sẽ có một ngày những tác phẩm ấy được trả lại giá trị, được đem ra trước công chúng.

Hà Nội và những ký ức còn lại

Bộ sưu tập riêng tư, gia tài tinh thần của Nguyễn Duy Kiên một lần tình cờ lọt vào “mắt xanh” của hai nhà nhiếp ảnh Nguyễn Hữu Bảo và Trịnh Tiến, nhà sử học Dương Trung Quốc. Suốt 10 năm các ông đã cố gắng giới thiệu đến công chúng một “di sản tinh thần bằng hình ảnh của Hà Nội lâu nay bị thời gian làm khuất lấp” (lời nhà sử học Dương Trung Quốc). Sau hai lần triển lãm ở Hà Nội (1999) và TP HCM (2000), năm 2007 cuốn sách ảnh Nguyễn Duy Kiên- Những ký ức còn lại chính thức ra mắt công chúng. Hà Nội năm 1946 của Nguyễn Duy Kiên là một bộ ảnh hiếm và đặc biệt quý giá. Bởi đến nay rất ít tài liệu bằng hình còn lưu giữ được hình ảnh của một Hà Nội tan hoang và bi tráng trong những ngày “tiêu thổ kháng chiến”. Ngày giải phóng thủ đô, có một tấm ảnh duy nhất ở góc máy từ trên cao, cho thấy cả biển người như sóng dậy đón ngày giải phóng với đầy tràn khí thế và hy vọng- đó là ảnh của Nguyễn Duy Kiên. Chất thông tấn đặc sắc của bức ảnh này đã khiến ký ức cá nhân của người chụp trở thành ký ức vô giá của cả cộng đồng. Nguyễn Duy Kiên có một mảng ảnh rất thanh thản và đượm tình. Đó là khi ông chụp tổ ấm của mình: chân dung người vợ trẻ với đôi mắt ánh ngời thanh xuân (ông đề ảnh là “Nam Quốc xuân quang– ánh xuân của nước Nam), cũng người vợ ấy khi đứng bán thuốc theo nghiệp chồng, khi âu yếm đứa con gái đầu lòng; ảnh bọn trẻ trong nhà cùng nhau chơi những trò đồ hàng thơ ngây của con trẻ…

Nhà nhiếp ảnh Nguyễn Hữu Bảo nói: “Không chỉ là mỹ cảm về tinh thần Hà Nội xưa, ảnh của Nguyễn Duy Kiên còn là nguồn tư liệu quý giá và đa chiều cho các nhà nghiên cứu xã hội học, sử học, kiến trúc, thời trang. Những bức ảnh của Nguyễn Duy Kiên lý giải thế nào là tinh thần Hà Nội, thế nào là thanh lịch, hồn hậu…Hà Nội trong ảnh của ông là những ngày tháng nghèo khó, không an nhàn, những ngày biến động vì chiến tranh. Người Hà Nội nào cũng sẽ gặp lại chính mình trong ảnh của ông, tôi tin vậy. Chất thi ca và hiện thực trong ảnh ông mãnh liệt đến nỗi những nhân vật của ông – ta thấy như người thân quanh mình. Phải yêu Hà Nội vô cùng mới có thể chụp có tình như thế. Việc làm sống dậy “những ký ức còn lại” của Nguyễn Duy Kiên không đơn giản chỉ để giới thiệu về một tác giả. Mà tôi nghĩ mình đã làm được một điều gì đó có ích cho Hà Nội của tôi”.

Căn gác 2 quanh năm trầm u trong khói nhang thoang thoảng. Gian phòng lớn bà Kiên dành để thờ chồng, người vợ cả cùng 2 người con chồng. Bà cùng người con gái (cũng góa bụa) ở tiệm tùng và thanh bạch trong căn phòng nhỏ. Nhiều người đến hỏi mua những bức hình của Nguyễn Duy Kiên, bà đều từ chối: “Nhà tôi chỉ để lại đựợc có thế này, tôi phải giữ gìn di sản của ông cho nguyên vẹn”. Bà Kiên luôn có một niềm tin chắc chắn rằng, giờ đây ông đã được ngậm cười nơi chín suối…